Nghệ nhân dân gian rồi sẽ ra sao?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Vừa rồi, các cơ quan liên quan công bố việc họ sưu tầm được hàng ngàn sử thi Tây Nguyên. Những người quan tâm vô cùng mừng. Nhưng có nhà báo sống lâu năm ở Tây Nguyên phải đặt câu hỏi trên báo: Sử thi sao mà nhiều thế. Lại có nhà báo khác thắc mắc: Sao cái gì cũng gọi sử thi? Nhân dân có gọi là sử thi, hay là phong lên thành sử thi cho nó... oách? Trên ti vi thấy có cô phóng viên hỏi một nghệ nhân: Bác ơi bác có thể cho biết bác biết mấy cái sử thi? Ông này nói (tiếng Kinh chưa sõi): Ô mình biết nhiều lắm mà, 5 cái (!). Tôi là người cũng ở Tây Nguyên nhiều, đi cũng lắm, cũng có đi sưu tầm và học hỏi văn hóa dân gian nhưng xin thề là chưa có ở đâu người ta gọi hơ a mon, hơ ri, khan... là sử thi cả, vì vậy cái việc cô phóng viên kia hỏi và ông già Bahnar trả lời trôi chảy trước ống kính chắc chắn là... đóng kịch...

Biểu diễn cồng chiêng. Ảnh: Đức Thanh
Biểu diễn cồng chiêng. Ảnh: Đức Thanh
Cái mà ngày nay chúng ta phong cho nó là sử thi ấy, người Bahnar gọi là Hơ a mon, người Jrai gọi là Hơri, người Êđê gọi là Khan... là một loại hình hát kể dân gian của cư dân Tây Nguyên. Nó ra đời từ đòi hỏi tự thân của con người khi mà cuộc sống của họ khi ấy còn rất sơ khai, đời sống vật chất đang còn phát đốt chọc trỉa, tất cả mọi thứ đều tự cung tự túc, kể cả đời sống tinh thần. Hát kể ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu giải trí chính đáng ấy của những người dân... Hãy hình dung, giữa mênh mông rừng thẳm, bên bếp lửa bập bùng, chợt tối chợt sáng hoặc ánh xà nu leo lét, họ còn biết làm gì ngoài việc tập trung lên nhà rông hoặc nhà nghệ nhân nghe người già kể chuyện. Những cốt truyện dân gian vô cùng hấp dẫn, mở ra trí tưởng tượng cho con người bay bổng vào rừng ra biển, lên trời xuống âm ti, thoát ra khỏi ngôi làng loi thoi như những cái nấm trong rừng già ấy được kể được diễn bởi một con người vô cùng tài hoa. Người này vừa nói vừa hát vừa kể, có thể giả giọng tất cả các nhân vật trong truyện. Không chỉ thế, ông ta còn có khả năng biểu diễn siêu phàm bằng các động tác của tay, chân đầu mình, miệng, mắt, mũi... khiến người dự khán dự thính cứ ngả nghiêng cười hoặc tròn mắt hồi hộp. Đấy phải là người có khả năng cảm nhận vô cùng tốt và sâu sắc. Hơn nữa, còn sự phụ họa của ánh lửa bập bùng.

Tất nhiên là có rất nhiều lý do, cả khách quan và chủ quan để thể loại văn nghệ dân gian này ngày càng có nguy cơ biến mất... Trước hết là sự hiện đại lên của đời sống. Ti vi, radio, báo in, đàn ghi ta, organ trang bị cho xã, điện thay bếp lửa hoặc ánh xà nu... yếu tố huyền ảo mất đi, sự ly kỳ hấp dẫn mất đi, các nghệ nhân hát kể thất nghiệp.

Tiếp đến nữa là chính sách. Chúng ta luôn luôn nói giữ gìn bản sắc dân tộc, nhưng quả thực, nếu bất ngờ hỏi một cán bộ văn hóa cấp tỉnh, chứ chưa nói cấp huyện, rằng là cái món bản sắc ấy nó là cái gì thì khối người ú ớ. Các nghệ nhân họ cũng cần phải sống chứ không thể chỉ uống nước lã rồi lâu lâu mới làm nghề.
Ông Đinh Gang, người đã giúp chúng tôi trong việc kể liên tục cả tuần lễ cái hơ a mon Diông Dư, sống ở làng Hơrn, huyện Kông Chro là một ví dụ. Đấy là một người đàn ông có trí nhớ đặc biệt và năng khiếu hát kể đặc biệt với một chất giọng đặc biệt. Một người mà hội tụ đủ các phẩm chất ấy quả là quý hiếm trong mọi thời đại. Ông có thể kể liên tục hàng tuần và liên tục làm cho dân làng sửng sốt khi xem ông biểu diễn. Chỉ nguyên việc nhớ như thế đã là đáng nể rồi, mà lại còn hú hét ngâm nga, hoa chân múa tay biểu cảm... mà nào ông có được “tập dượt” gì như các diễn viên văn nghệ quần chúng đâu. Ban ngày, ông vào rừng lấy mây về mang ra chợ bán. Mà cũng chả được bao nhiêu vì sức khỏe yếu, ban đêm thì uống rượu và ngủ chứ thực ra thì cả mấy năm rồi ông chẳng hơ a mon cho ai nghe cả, vì dân làng không cần với lại đi lấy mây cả ngày thì còn sức đau nữa . Thanh niên bây giờ đã có nhiều thú vui hiện đại khác, mà cái mốt đang hiện hành ở các làng dân tộc thiểu số là đốt một đống lửa, ngồi quanh đấy, mỗi người đeo một cái cát xét to đùng mở nhạc oang oang. May có mấy ngày chúng tôi về sưu tầm, mời Đinh Gang hát kể, Đinh Gang như người trẻ lại, vì nhiều lẽ, thứ nhất là anh được hơ a mon. Chúng tôi mời anh ăn cơm cùng và nói rõ mỗi ngày sẽ được Nhà nước bồi dưỡng bao nhiêu. Đến khi ứng tiền cho anh thì anh thật sự mừng, số tiền nhỏ nhoi theo chế độ nhưng cũng bằng hàng trăm ngày anh lặn lội vào rừng lấy mây rồi đèo rồi gùi ra chợ thị trấn vật vạ bán. Nói thế để thấy chúng ta vẫn chưa có một chế độ chính sách gì với các nghệ nhân, những người càng ngày càng già đi, càng quên “nghề” đi, mà những gì họ biết là những thứ độc nhất vô nhị, một đi không trở lại. Khi tôi viết bài này thì được tin bà Hà Thị Cầu đang ốm nặng. Ai cũng biết bà là viên ngọc cực quý, là nghệ nhân hát xẩm cuối cùng của nước ta, thế mà suốt bao nhiêu năm bà chả có chế độ gì, trừ thi thoảng có việc gì đấy người ta đánh xe về chở bà đi rồi chở về với ít tiền bồi dưỡng. Các nghệ nhân Tây Nguyên, từ làm nhà rông, tạc tượng nhà mồ, chỉnh chiêng đến dệt vải, đan gùi làm nỏ rồi săn và thuần dưỡng voi... cũng tương tự. Trừ chỉnh chiêng có vẻ có việc làm kể từ khi Không gian văn hóa cồng chiêng được UNSCO công nhận là Kiệt tác văn hóa phi vật thể, còn các loại nghệ nhân khác gần như không có đất thi thố trổ tài thì làm sao mà luyện nghề mà truyền nghề...
Thời gian thì vẫn trôi, cuộc sống thì ngày càng văn minh hiện đại, nhịp cuộc đời ngày càng gấp gáp... các yếu tố ấy đẩy nghệ nhân dân gian nói riêng, văn hóa truyền thống nói chung vào cái thế không thể không gõ lên SOS.
Văn Công Hùng

Có thể bạn quan tâm

Thơ Lữ Hồng: Cho người ở lại

Thơ Lữ Hồng: Cho người ở lại

(GLO)- Chúng ta đều yêu Pleiku nhưng không phải ai cũng chọn ở lại và gắn bó. Một lúc nào đó, vào chặng cuối cuộc đời, người Pleiku tha hương mới dâng đầy nỗi nhớ. Bài thơ của Lữ Hồng ngỡ là lời của một người ra đi gửi cho người ở lại, mà cũng có thể là lời của người ở lại gửi cho chính mình...

Những cánh hoa bay

Những cánh hoa bay

(GLO)- Có những cung đường đã theo ta suốt từ những năm tháng tuổi thơ cho đến ngày mái tóc đã bắt đầu lấm chấm sợi trắng. Những cung đường ấy mỗi lần ngang qua là một trời ký ức ùa về. Nơi đó có những cây chò nâu cao vút, những đứa trẻ nhặt đầy tay những cánh hoa xoay xoay cuốn theo chiều gió.

Những người “giữ lửa” dân ca Jrai

Những người “giữ lửa” dân ca Jrai

(GLO)- Với người Jrai, hát dân ca là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, những người biết hát dân ca luôn quan tâm tới việc bảo tồn, lưu giữ và khơi gợi niềm đam mê cho thế hệ trẻ để góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Phố khuya

Phố khuya

(GLO)- Thỉnh thoảng có việc ra ngoài, trở về nhà khi trời đã ngả dần về khuya, tôi thường chạy xe thật chậm. Dường như những lúc đó, luôn có một lý do níu tôi chậm lại để quan sát một đời sống khác, khi phố đã vào đêm.